Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên mầm non, tiểu học
Tình trạng thiếu giáo viên mầm non, tiểu học đang trở thành vấn đề nóng bỏng đối với ngành giáo dục nói chung. Theo Bộ GD-ĐT, tính đến hết năm học 2022 – 2023, theo thống kê sơ bộ trên cơ sở dữ liệu ngành, tổng số giáo viên mầm non, phổ thông là 1.234.124 người, trong đó, công lập chiếm 88,57%, ngoài công lập chiếm 11,43%. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay, hiện cả nước còn thiếu 118.253 giáo viên, cao hơn 11.308 người thiếu so với năm học 2021 – 2022, chủ yếu ở mầm non, tiểu học (cấp mầm non tăng 7.887 người, cấp tiểu học tăng 169 người, cấp THCS tăng 1.207 người, cấp THPT tăng 2.045 người). Việc thiếu giáo viên thường xảy ra ở những nơi có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn như miền núi, vùng sâu vùng xa.
Nhiều địa phương trên cả nước đang thiếu giáo viên tiểu học ở mức trầm trọng. Như tỉnh Nghệ An, hệ tiểu học mới đạt bình quân hơn 1,2 giáo viên/lớp so với quy định là 1,5 giáo viên/lớp. Có những nơi 1 giáo viên phải chủ nhiệm cùng lúc 2 lớp. Do thiếu giáo viên và tỷ lệ học sinh/lớp đông nên nhiều trường không đủ phòng học, buộc phải nghỉ luân phiên các ngày trong tuần. Việc thừa, thiếu cục bộ dẫn tới nhiều địa phương phải bố trí giáo viên dạy chéo môn, chéo cấp, thuyên chuyển giáo viên ở cấp cao hơn xuống dạy tiểu học. Một số tỉnh vì tinh giản biên chế dẫn tới sĩ số học sinh/lớp tăng vượt quá quy định do phải dồn lớp, dồn trường. Nhiều tỉnh không được tăng biên chế nên bù đắp bằng việc ký hợp đồng để có giáo viên dạy học nếu không sẽ phải đóng cửa trường.

Nguyên nhân tình trạng thiếu giáo viên mầm non, tiểu học
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu giáo viên tiểu học nói riêng và cả các cấp học khác là việc dự báo, tính toán nhu cầu chưa sát với thực tế. Sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT không phải là đơn vị chủ trì về tuyển dụng nên không chủ động trong việc điều tiết số lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên theo môn học, cấp học. Công tác quy hoạch, sắp xếp mạng lưới, trường lớp phòng học còn nhiều hạn chế. Việc phối hợp giữa ngành Nội vụ, ngành Giáo dục và các đơn vị liên quan trong tuyển dụng, sắp xếp giáo viên ở một số địa phương hiện chưa thống nhất. Các trường sư phạm cũng không có căn cứ để xác định chỉ tiêu tương ứng với bậc học, môn học nên đào tạo không đáp ứng nhu cầu thực tế.
Những khu đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương thiếu nhiều giáo viên do các cụm công nghiệp đang phát triển mạnh, quy mô dân số tăng và số học sinh tăng nhanh mỗi năm. Trong khi công tác bố trí số lượng giáo viên bị động, không kịp thời khiến trường lớp quá tải. Còn đối với miền núi, biên giới, vùng sâu vùng xa, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, giao thông và kinh tế khó khăn nên không thu hút giáo viên yên tâm công tác lâu dài. Hơn nữa đặc thù có nhiều điểm trường nhỏ lẻ, lớp có sĩ số học sinh ít trong khi vẫn cần đảm bảo đủ giáo viên.
Sau khi có Nghị quyết số 39-NQ/TW “về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”, hầu hết các tỉnh, thành không được giao thêm biên chế giáo viên nhưng vẫn phải thực hiện tinh giản 10%, mặc dù số học sinh đang tăng. Mặt khác, nhiều địa phương xử lý chưa hài hòa giữa nhu cầu tăng giáo viên để bảo đảm quy định và chủ trương tinh giản biên chế. Nhiều tỉnh thành đã thực hiện một cách cứng nhắc và máy móc, tập trung chủ yếu vào cắt giảm giáo viên mà không tính toán đến yếu tố đặc điểm dân số, điều kiện kinh tế xã hội vùng miền, của môn học, cấp học, đặc biệt là nguyên nhân thừa thiếu giáo viên cụ thể của từng địa phương. Và hầu hết các tỉnh thành bù đắp việc thiếu giáo viên bằng hợp đồng hoặc điều chuyển giáo viên giữa các môn học, các trường, các cấp một cách ồ ạt. Do đó, dẫn đến việc một số địa phương đã ký hợp đồng giáo viên ngoài chỉ tiêu biên chế như: Đắk Lắk, Cà Mau, Hà Nội. Vấn đề rất khó khăn ở một số nơi là không có nguồn để tuyển dụng hoặc ký hợp đồng làm việc do áp dụng quy định điều kiện về trình độ chuẩn của giáo viên các cấp học theo luật Giáo dục năm 2019 trong tuyển dụng.
Chế độ đối với giáo viên chưa thỏa đáng là nguyên nhân chính của việc khó thu hút người giỏi vào ngành giáo dục. Tình trạng học xong sư phạm không tìm được nơi dạy đã diễn ra nhiều năm qua. Chính sách dành cho giáo viên thay đổi quá chậm nên nhiều nhà giáo hiện đang phải tìm nhiều cách xoay xở để trang trải cho cuộc sống tối thiểu của mình. Không ít thầy cô hằng ngày phải làm thêm các công việc khác để có thêm thu nhập. Thực tế có không ít giáo viên sau những năm gắn bó với nghề đã phải bỏ nghề để tìm hướng đi mới.
Trong khi việc thuê giáo viên hợp đồng dẫn đến họ không được hưởng một chế độ đãi ngộ đầy đủ như giáo viên cơ hữu, ảnh hưởng tâm lý của người dạy và khó giữ chân họ lâu dài. Việc liên tục ký hợp đồng mới dẫn đến mất một khoảng thời gian tập sự, tốn thêm các chi phí và tăng thêm nhiều công việc trong tuyển dụng của cơ sở giáo dục. Hơn nữa, ngày nay thu nhập của người dân đang được nâng cao, nhu cầu học thêm của trẻ nhỏ nhiều. Những giáo viên giỏi nếu không tìm kiếm được một vị trí ổn định sẽ dễ ra các trung tâm dạy thêm.
Nhìn ở góc độ vĩ mô, công tác dự báo nhu cầu về đội ngũ giáo viên của cả nước và của nhiều địa phương không tốt, dẫn tới bị động trong bố trí số lượng giáo viên. Các trường sư phạm cũng không có căn cứ để xác định chỉ tiêu đào tạo theo cơ cấu tương ứng với bậc học, môn học, không bám sát nhu cầu giáo viên được dự báo trong 4 – 5 năm. Ở một số địa phương, việc tăng dân số cơ học cộng với tình trạng dịch chuyển dân số do nhiều khu đô thị, khu công nghiệp mọc lên quá nhanh khiến trường lớp quá tải, thiếu giáo viên.
Một số giải pháp khắc phục tình trạng thiếu giáo viên mầm non, tiểu học
Giải pháp trước mắt là việc tính toán nhu cầu giáo viên, tình trạng thừa thiếu cần được thực hiện theo quận, huyện, hoặc thậm chí theo từng trường học để đưa ra những con số sát với thực tế. Các trường, Phòng GD&ĐT được phép chủ động tuyển dụng giáo viên trong giai đoạn chuyển tiếp. Các địa phương tiếp tục sắp xếp, rà soát mạng lưới trường lớp theo hướng sát nhập, tăng quy mô các trường để tránh lãng phí đầu tư cũng như chỉ tiêu biên chế.
Điều tiết số giáo viên từ nơi thừa sang nơi thiếu một cách hợp lý để bảo đảm về số lượng giáo viên và cơ cấu môn học cho từng trường. Việc điều chuyển có thể từ cấp này sang cấp khác, từ trường này sang trường khác, thậm chí từ tỉnh này sang tỉnh khác, nơi thiếu ít hỗ trợ nơi thiếu nhiều. Những địa phương chưa thể bố trí đủ giáo viên theo định mức quy định thì cho phép thực hiện hợp đồng giáo viên trong vài năm. Còn với những địa phương mà ngay cả nguồn tuyển hợp đồng từ sinh viên sư phạm cũng không đủ thì có thể thu hút những cá nhân có năng lực, trình độ, có nguyện vọng và yêu thích việc giảng dạy từ các ngành nghề phù hợp để tập huấn kỹ năng sư phạm.
Đồng thời, các trường sư phạm phối hợp chặt chẽ với các địa phương để có kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn cho số giáo viên được chuyển sang cấp học còn thiếu về kiến thức, phương pháp giảng dạy… Với miền núi gặp rất nhiều khó khăn thì có thể tuyển dụng giáo viên dưới chuẩn, sau đó địa phương nên trích ngân sách để tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Việc tuyển dụng hay tinh giản, hợp đồng giáo viên phải tính toán cụ thể, chi tiết phù hợp đối với từng môn học, cấp học, đặc thù vùng miền khác nhau, cần căn cứ vào số trường, số lớp, số học sinh từng nơi. Tránh tình trạng khi có chủ trương thì tuyển dụng ồ ạt, dẫn đến vừa thừa vừa thiếu. Đối với việc tinh giản biên chế cần dựa trên tính toán cụ thể về nhu cầu công việc chuyên môn giáo dục, tránh tình trạng cứng nhắc, cào bằng. Như vậy vừa bảo đảm đủ về cơ cấu, số lượng giáo viên đáp ứng nhu cầu dạy học và không mâu thuẫn với chủ trương tinh giản biên chế hiện nay…
Trong dài hạn, không chỉ có chính sách thu hút người học ngành sư phạm, mà cần chính sách giữ chân người dạy. Gắn trách nhiệm của các địa phương từ nhu cầu đến đặt hàng đào tạo, sử dụng sinh viên sau tốt nghiệp nhằm tránh tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và thực trạng sinh viên tốt nghiệp làm trái ngành nghề đào tạo. Hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt tối thiểu sau 2 năm kể từ khi tốt nghiệp, và bồi hoàn khoản kinh phí của Nhà nước nếu không công tác trong ngành giáo dục hoặc công tác không đủ thời gian quy định. Cho phép các cơ sở đào tạo giáo viên được đặt hàng, đấu thầu hoặc đào tạo theo nhu cầu xã hội. Việc hỗ trợ học phí và bố trí công việc sau khi tốt nghiệp sẽ thu hút sinh viên theo ngành sư phạm.
Để thu hút sinh viên và giữ chân giáo viên ở miền núi nên có cơ chế đặc biệt. Chẳng hạn quy định giáo viên sau số năm nhất định nếu công tác tốt có thể xét tuyển vào biên chế hoặc về xuôi nếu các thầy cô có nguyện vọng. Cần hỗ trợ nhiều hơn cho giáo viên vùng khó khăn, không chỉ lương, phụ cấp, thưởng ngày lễ mà cả điều kiện sinh hoạt hàng ngày, như hỗ trợ phương tiện đi lại với thầy cô còn thiếu, cung cấp nhu yếu phẩm định kỳ cho thầy cô và các em học sinh nội trú, để các thầy cô không phải cõng gạo lên non. Về hạ tầng vùng cao như đường sá, trường học cũng cần cải tạo lại thông qua thu hút đầu tư. Nhìn những thầy cô sắn quần lấm lem bùn đất, đẩy xe ngập trong vũng lầy khiến ai cũng đều phải cám cảnh. Sự quan tâm của của chính quyền địa phương và các sở ban ngành giáo dục sẽ giúp các thầy cô không còn thấy cô đơn trên những rẻo cao. Bởi nếu đời sống không được cải thiện thì thật khó mà tập trung cho công việc khi ngoài giờ các thầy cô còn phải nghĩ đến cách để tăng thu nhập, con cái không nhận được chăm sóc đầy đủ, vợ chồng, cha mẹ già ở rất xa. Nếu tình trạng này kéo dài không sớm thì muộn các thầy cô cũng từ bỏ nghề giáo và tìm công việc khác.
Đối với khu đô thị, khu công nghiệp, thành phố lớn thiếu giáo viên mầm non, tiểu học do quy mô dân số tăng nhanh thì phải được tăng chỉ tiêu tuyển mới. Ngoài ra có thu hút giáo viên từ nơi khác đến thông qua các chính sách ưu đãi.
Để tránh tình trạng sinh viên sư phạm thất nghiệp, thừa thiếu cục bộ, các trường sư phạm cần kết hợp với địa phương khảo sát nhu cầu số lượng giáo viên của từng cấp học, môn học. Từ đó xác định chỉ tiêu đào tạo giáo viên trên cơ sở kết hợp nhu cầu của địa phương với năng lực của các cơ sở đào tạo.
Cần đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Chính phủ cần xây dựng cơ chế khuyến khích chuyển đổi mô hình đối với các cơ sở giáo dục phổ thông công lập đang quá tải và không hiệu quả sang ngoài công lập. Điều này sẽ góp phần tích cực để cải thiện hạ tầng trường lớp, đồ dùng thiết bị dạy học và nâng cao chất lượng đào tạo. Có như vậy thì mới giúp mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục sẽ thực hiện nhanh chóng và thành công.